Những câu hỏi thường gặp về HIV/AIDS
* Tài liệu này được dịch từ tài liệu chính thức của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (American Psychological Association, APA) “Answers to Your Questions About Sexual Orientation and Homosexuality” và “Answers to Your Questions for A Better Understanding of Sexual Orientation & Homosexuality” với phần in nghiêng là phần tiếng Việt được thêm vào.
Xu hướng tính dục là gì?
Xu hướng tính dục là một trong bốn yếu tố tạo nên tính dục và được định nghĩa là sự hấp dẫn có tính bền vững về tình cảm và/hoặc tình dục hướng tới những người khác. Nó khác với ba cấu thành khác của tính dục bao gồm giới tính sinh học (do các yếu tố sinh học quy định), bản dạng giới (cảm nhận tâm lý mình là nam hay nữ), và thể hiện giới (sự thể hiện và vai trò về nam tính hay nữ tính trong đời sống).
Từ đó phân ra các loại xu hướng tính dục:
• Thấy hấp dẫn bởi người khác giới: Dị tính.
• Thấy hấp dẫn bởi người cùng giới: Đồng tính.
• Thấy hấp dẫn bởi cả hai giới: Song tính.
Khác với hành vi tình dục, xu hướng tính dục bao gồm cả những cảm nhận, tình cảm và cảm nhận cá nhân. Hành vi tình dục của một người có thể phản ánh xu hướng tính dục của họ, cũng có thể không.
Điều gì tạo nên xu hướng tính dục của một người?
Các nhà khoa học vẫn chưa hiểu rõ xu hướng tính dục hình thành và phát triển ở mỗi cá nhân như thế nào. Các giả thuyết khác nhau giải thích về nguồn gốc của xu hướng tính dục, từ các yếu tố về gien hay hoóc-môn hay những trải nghiệm từ thơ ấu. Tuy nhiên, các nhà khoa học thống nhất với nhau rằng với nhiều người, xu hướng tính dục được hình thành từ rất sớm thông qua những tương tác phức tạp về sinh học, các yếu tố tâm lý và xã hội.
Nguyên nhân nào làm một người yêu người cùng giới thì cũng chính là nguyên nhân làm một người yêu người khác giới. Điều quan trọng là đồng tính, dị tính hay song tính đều là những xu hướng tính dục bình thường, tự nhiên của con người. Các nhà khoa học đã không còn tập trung nghiên cứu nguyên nhân tạo nên xu hướng tính dục nữa mà
chuyển sang nghiên cứu ảnh hưởng của việc kì thị đồng tính và xóa bỏ những định kiến về đồng tính.
Xu hướng tính dục có phải là lựa chọn/tập nhiễm hay không?
Không. Xu hướng tính dục bắt đầu hình thành từ giai đoạn đầu của thiếu niên trước cả khi có trải nghiệm về tình dục. Nhiều người đã cố gắng thay đổi xu hướng tính dục nhưng không thành công. Các nhà khoa học không xem đồng tính hay song tính là một lựa chọn hay hành vi tập nhiễm.
Đồng tính có phải là một bệnh, rối loạn tâm lý hay vấn đề về cảm xúc hay không?
Không. Các nhà tâm thần học, tâm lý học và chuyên gia sức khỏe tâm thần đã đồng ý với nhau rằng đồng tính không phải là bệnh, rối loạn tâm lý hay vấn đề về cảm xúc.
Hành vi dị tính hay hành vi đồng tính đều là những khía cạnh bình thường của tính dục con người. Cả hai đều được ghi nhận trong các nền văn hóa và giai đoạn lịch sử khác nhau. Mặc dù những định kiến dai dẳng vẫn xây dựng hình ảnh người đồng tính, song tính như những người lệch lạc, hàng thập kỷ nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng
đều đi đến kết luận rằng đồng tính, dị tính hay song tính đều là điều bình thường, tự nhiên của con người. Các tổ chức y học, sức khỏe tâm thần đều lần lượt không còn xem đồng tính là một bệnh hay rối loạn tâm lý nữa.
Trong quá khứ đồng tính từng bị coi là rối loạn tâm lý bởi vì các chuyên gia sức khỏe tâm thần và cả xã hội đã có những thông tin sai lệch về đồng tính, do họ chỉ nghiên cứu trên những người đồng tính vốn đang phải trị liệu tâm lý. Khi những nghiên cứu về sau này mở rộng ra những người đồng tính không trị liệu tâm lý, kết luận đồng tính là rối loạn tâm lý trở nên không đúng nữa.
Làm sao để một người biết mình là đồng tính hay song tính?
Theo hiểu biết hiện nay của khoa học, xu hướng tính dục thường bắt đầu từ những cảm xúc giới tính xuất hiện ở giai đoạn đầu dậy thì hoặc thậm chí sớm hơn. Sự hấp dẫn này có thể xuất hiện khi chưa từng có trải nghiệm tình dục nào. Người ta có thể không hề quan hệ tình dục mà vẫn biết xu hướng tính dục của mình – thích người cùng giới, khác giới hay cả hai.
Mỗi người đồng tính và song tính cũng có trải nghiệm rất khác nhau. Có những người biết mình là đồng tính hoặc song tính từ lâu, sau đó mới có quan hệ yêu đương, tình dục. Có những người lại có quan hệ tình dục trước (với người cùng giới hay khác giới) rồi mới tự xác định xu hướng tính dục của mình. Định kiến và phân biệt đối xử khiến
nhiều người chối bỏ xu hướng tính dục của mình, vì thế việc nhận ra bản thân là đồng tính hay song tính có thể là một quá trình diễn ra từ từ.
Đồng tính và tuổi mới lớn Thiếu niên là giai đoạn từ lúc bắt đầu dậy thì đến trước khi trưởng thành. Đây là giai đoạn của những trải nghiệm, và nhiều người trẻ băn khoăn về những cảm xúc của mình. Một vài cảm xúc với người cùng giới không có nghĩa đó là người đồng tính. Và tương tự - một vài cảm xúc với người khác giới cũng không có nghĩa đó là người dị tính.
Cảm xúc và trải nghiệm là một phần của quá trình phát triển nhân cách. Thiếu niên sẽ dần định rcảm xúc của mình là dành cho người cùng giới, khác giới hay cả hai. Không cần phải cố áp một tên gọi nào cho mình, và cũng không cần kìm nén, chối bỏ, gượng ép hay giả tạo cảm xúc của mình. Người đồng tính, song tính cũng đi theo quá trình phát triển giống như những thiếu niên dị tính. Tất cả đều trải qua thử thách trong việc phát triển các kỹ năng xã hội, học hành, nghề nghiệp, tham gia vào xã hội. Giống như hầu hết bạn bè dị tính của mình, hầu hết người đồng tính, song tính cũng là những cá nhân khỏe mạnh, gắn bó và hữu ích cho gia đình, xã hội.
Có cách nào để một người đồng tính trở thành người dị tính không?
Tất cả các tổ chức lớn về sức khỏe tâm thần đều đã cảnh báo chính thức về những cái gọi là “liệu pháp thay đổi xu hướng tính dục”. Không có một nghiên cứu khoa học nào chứng minh những liệu pháp này là an toàn và hiệu quả. Hơn nữa, việc xem đồng tính là một cái gì đó cần “chữa trị” là đi ngược lại với những hiểu biết khoa học được thừa
nhận rộng rãi, và càng làm tăng định kiến và kì thị với người đồng tính.
Các lời khuyên thường nghe như tập chơi các môn thể thao với đồng tính nam, làm những công việc nữ tính với đồng tính nữ hay cố gắng không tiếp xúc với người cùng giới, đều là những lời khuyên không dựa trên cơ sở khoa học.
Có phải tất cả những người đồng tính và song tính nam đều nhiễm HIV?
Không. Đó chỉ là một điều ngộ nhận hoang đường của nhiều người. Trong thực tế, nguy cơ nhiễm HIV liên quan đến hành vi của một người, chứ không liên quan đến xu hướng tính dục của người đó. Mọi hành vi quan hệ tình dục không an toàn, dù là cùng giới hay khác giới, đều nguy hiểm như nhau. Điều quan trọng cần nhớ về HIV/AIDS là bạn có thể phòng ngừa bệnh bằng cách luôn luôn quan hệ tình dục an toàn, cũng như không sử dụng các chất ma túy.